BỘ TÀI LIỆU Phổ biến Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tần số vô tuyến điện
Tải về
Tải về
BỘ
TÀI LIỆU
Phổ
biến Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của
Luật tần số vô tuyến điện
(Bộ Tài liệu đăng tải trên Cổng thông tin điện
tử huyện Quỳ Hợp)
I.
SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT TẦN SỐ VÔ
TUYẾN ĐIỆN
Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 được Quốc
hội khóa XII thông qua ngày 23/11/2009 tại Kỳ họp thứ 6 đã tạo hành lang pháp
lý toàn diện, phù hợp với thông lệ quốc tế cho quản lý hoạt động và phát triển
lĩnh vực vô tuyến điện tại Việt Nam và tạo cơ sở pháp lý cho việc đàm phán,
tham gia các hoạt động phối hợp tần số quốc tế. Các quy định của Luật đi vào cuộc
sống đã góp phần thúc đẩy sự phát triển thông tin vô tuyến điện, thúc đẩy ứng dụng
các công nghệ hiện đại sử dụng hiệu quả tài nguyên tần số vô tuyến điện, đồng thời giữ vai trò
quan trọng trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về lĩnh vực này. Tuy nhiên, sau hơn 10
năm thực thi, Luật cần được sửa đổi, bổ sung để khắc phục các bất cập trong quá
trình thực thi; thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách mới của Đảng và
Nhà nước; đồng bộ với các quy định mới của pháp luật đáp ứng sự phát triển của kinh tế
- xã hội và xu hướng quản lý, sử dụng tần số vô tuyến điện trên thế giới. Cụ thể:
1. Về
cơ sở chính trị
- Các
chủ trương mới của Đảng tại Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã yêu cầu
chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số
quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số; quản lý chặt chẽ, sử dụng
hợp lý, hiệu quả tài nguyên; hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để huy
động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để phát triển
kinh tế nhanh và bền vững. Nghị quyết số 52/NQ-TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính
trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư đã đặt ra mục tiêu đến năm 2030 mạng di động 5G phủ sóng toàn quốc,
mọi người dân được truy cập Internet băng thông rộng với chi phí thấp. Do đó,
các yêu cầu, mục tiêu trên của Đảng cần được thể chế kịp thời trong Luật Tần số
vô tuyến điện để thúc đẩy việc quản lý, sử dụng tần số vô tuyến điện hiệu quả,
góp phần phát triển hạ tầng số, cụ thể là việc quản lý, sử dụng tần số có giá
trị thương mại cao; việc quản lý, sử dụng tần số trong đo kiểm, nghiên cứu, thử
nghiệm công nghệ mới; việc quản lý đào tạo, cấp chứng chỉ vô tuyến điện viên,
trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc bảo vệ chủ quyền về tần số và quỹ đạo
vệ tinh...
-
Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng, phát triển
nền công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh hiện đại, lưỡng dụng, vừa đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc vừa góp phần quan trọng phát triển kinh tế, xã
hội”; Nghị quyết số 23/NQ/TW, ngày 23/3/2018 của Bộ Chính trị về định hướng
chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
xác định “ưu tiên phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh, kết hợp với công
nghiệp dân sinh theo hướng lưỡng dụng”. Để cụ thể hóa chủ trương của Đảng, Nhà
nước kết hợp chặt chẽ bảo đảm quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế, xã hội,
xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh hiện đại, lưỡng dụng, vừa đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, vừa góp phần quan trọng phát triển kinh tế,
xã hội, Luật cần bổ sung quy định cho phép trong một số trường hợp cần thiết
giao quyền Thủ tướng Chính phủ cho phép doanh nghiệp nhà nước trực tiếp phục vụ
quốc phòng, an ninh được sử dụng tần số vô tuyến điện để phát triển kinh tế kết
hợp với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
2. Về thực tiễn thực hiện Luật Tần số
vô tuyến điện năm 2009
Sau khi Luật Tần số
vô tuyến điện năm 2009 được thông qua đến
nay, hệ thống pháp luật đã có nhiều thay đổi. Nhiều
luật mới có liên quan đến nội dung của Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 đã được ban hành, trong đó có Luật Quản lý, sử dụng tài sản
công năm 2017; Luật Phí và lệ phí
năm 2015; Luật Xử lý vi phạm
hành chính năm 2012 (được sửa đổi, bổ sung năm 2020); Luật Đầu tư năm 2020; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (được sửa
đổi, bổ sung năm 2020)... Do đó một số quy định của Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 cũng cần sửa đổi để tạo sự đồng bộ, thống nhất trong hệ
thống pháp luật, đó là: Cần đồng bộ với Luật
Xử lý vi phạm hành chính trong việc quy định về sử dụng các phương tiện kỹ thuật
nghiệp vụ để phát hiện vi phạm hành chính về tần số vô tuyến điện, nâng cao hiệu
quả của công tác xử lý vi phạm; cần đồng bộ với Luật Quản lý, sử dụng tài sản
công trong việc quy định các khoản thu liên quan đến cấp quyền khai thác tài
nguyên; đồng bộ với Luật Phí, lệ phí trong việc quy định nguyên tắc xác định
phí sử dụng tần số vô tuyến điện; đồng bộ với Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật trong việc quy định thẩm quyền ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết Luật.
Ngoài ra, trong quá trình thực thi, Luật Tần
số vô tuyến điện hiện hành đã bộc lộ các vấn đề hạn chế, bất cập, cần được sửa
đổi, bổ sung, cụ thể:
(i) Nội hàm của Quy hoạch băng tần chưa
bao gồm quy định về giới hạn tổng độ rộng băng tần mà một tổ chức được phép sử
dụng để bảo đảm băng tần được sử dụng hợp lý, hiệu quả, thúc đẩy cạnh tranh,
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
(ii) Cần xác định khi nào đấu giá, khi nào
thi tuyển đối với băng tần được sử dụng để cung cấp dịch vụ thông tin di động mặt
đất công cộng.
(iii) Cơ chế đấu giá/thi tuyển quyền sử dụng
tần số vô tuyến điện sau khi giấy phép hết hạn sử dụng chưa phù hợp để thúc đẩy
phát triển hạ tầng số.
(iv) Luật chưa quy định rõ phương thức cấp
phép đối với tần số sử dụng để thử nghiệm mạng và dịch vụ viễn thông.
(v) Luật chưa có quy định để quản lý việc
sử dụng tần số vô tuyến điện trong một số trường hợp đặc biệt, đặc thù, cần thiết
phải sử dụng tần số trong giới hạn không gian, thời gian nhất định không phù hợp
với quy hoạch tần số vô tuyến điện như đo kiểm, nghiên cứu, thử nghiệm công nghệ
mới… phục
vụ cho sản xuất để xuất khẩu, hoặc nghiên cứu phát triển sản phẩm mới; hoặc để
bảo đảm hoạt động của các sự kiện quốc tế, hội nghị quốc tế tổ chức tại Việt
Nam.
(vi) Quy định về thu hồi giấy phép sử dụng
tần số vô tuyến điện còn chưa đầy đủ và thiếu tính khả thi.
(vii) Quy định về đào
tạo và cấp chứng chỉ vô tuyến điện viên chưa phù hợp với chủ trương xã hội hóa
giáo dục, đào tạo, cần đẩy mạnh cải cách hành chính.
(viii) Luật cần nâng cao trách nhiệm các
cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quá trình quản lý, khai thác, sử dụng
đảm bảo tính an toàn, không can nhiễu và chủ quyền quốc gia về tần số vô tuyến điện,
kết hợp chặt chẽ giữa bảo đảm quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế xã hội.
Xuất phát từ những vướng mắc, bất cập
trong thực tiễn quản lý nêu trên, đồng thời để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất
của hệ thống pháp luật và thể chế hóa kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng
cần thiết phải xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tần số vô
tuyến điện.
II.
QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG, MỤC TIÊU CHÍNH SÁCH CỦA LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA
LUẬT TẦN SỐ VÔ TUYẾN ĐIỆN
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Tần số vô tuyến điện (sau đây gọi là Luật) được xây dựng nhằm thể chế hóa các
văn bản của Đảng về hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử
dụng có hiệu quả tần số vô tuyến điện, quỹ đạo vệ tinh.
Luật được xây dựng dựa trên các quan điểm
sau đây:
1. Quản lý chặt chẽ, phân bổ hợp lý, hiệu
quả quyền sử dụng tần số vô tuyến điện, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh
trong hoạt động viễn thông, thúc đẩy phát triển hạ tầng viễn thông, góp phần tạo
nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số.
2. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính,
nâng cao trách nhiệm của Nhà nước, doanh nghiệp, người dân trong việc sử dụng tần
số vô tuyến điện và quỹ đạo vệ tinh, góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh và
hoạt động thông suốt của các hệ thống thông tin vô tuyến điện.
3. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động
quản lý tần số vô tuyến điện, bảo đảm việc chấp hành và tuân thủ pháp luật của
các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng tần số vô tuyến điện.
III. BỐ CỤC, NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT
1. Bố cục:
Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Tần số vô tuyến điện gồm 04 điều:
- Điều 1: Quy định việc sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Tần số vô tuyến điện, bao gồm 17 khoản thể
hiện việc sửa đổi, bổ sung các Điều 5, 10, 11, 12, 16, 17, 18, 19, 20, 22, 23,
24, 26, 27, 30, 31, 32, 39, 40, 42, 43, 45, 46, bổ sung Điều 11a, 18a, 20a.
- Điều 2: Quy định về việc sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Đầu tư để đảm
bảo tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.
- Điều 3: Quy định về hiệu lực
thi hành.
- Điều 4: Quy định về điều
khoản chuyển tiếp.
2. Nội dung cơ bản của Luật
a) Các quy định
liên quan quy hoạch băng tần, cấp phép sử dụng tần số vô tuyến điện và chế tài
xử lý vi phạm
(i) Băng tần
dành cho thông tin di động mặt đất công cộng rất hữu hạn và là đầu vào thiết
yếu để doanh nghiệp thông tin di động triển khai mạng lưới, kinh doanh và cung
cấp dịch vụ viễn thông cho khách hàng; doanh nghiệp nắm giữ tỷ lệ băng tần di
động lớn thì có lợi thế cạnh tranh và ngược lại. Nếu không có quy định về giới
hạn tổng độ rộng băng tần di động một tổ chức được cấp phép thì có thể xảy ra
tình trạng một doanh nghiệp sẽ sở hữu quá nhiều tần số (khi được cấp phép ban
đầu hoặc khi mua bán chuyển nhượng quyền sử dụng tần số vô tuyến điện được cấp
thông qua đấu giá), dẫn tới làm giảm hoặc thậm chí triệt tiêu tính cạnh tranh
của thị trường kinh doanh, cung cấp dịch vụ viễn thông. Đăng tược cấp thông qua
đấu giá), dẫn tới làm giảm hoặc thậm chí triệt tiêu à là đầu vào thiết yếu để
doanh nghiệp thông tin di động triểể gây bất lợi cho kinh doanh của doanh
nghiệp khác, nhiều nước khi triển khai đấu giá, thi tuyển để cấp phép tần số
đối với băng tần dành cho mạng viễn thông di động mặt đất công cộng, Luưg đã quy
đtượ gi đtược cấp thông qua đấu giá), dẫn tới làm giảm hoặc thậm chí triệt tiêu
à là đầu vào thiết yếu để doanh nghiệp thông
Tại Việt Nam,
quy hoạch băng tần là cơ sở pháp lý để cấp phép sử dụng băng tần cho doanh
nghiệp. Tuy nhiên nội hàm quy hoạch băng tần quy định tại điểm b, khoản 1 Điều
11 Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 chưa bao gồm quy định giới hạn tổng độ
rộng băng tần mà một tổ chức được cấp phép sử dụng, để làm cơ sở cho Bộ Thông
tin và Truyền thông (Bộ TTTT) phê duyệt quy hoạch băng tần. Đồng thời, nguyên
tắc xây dựng quy hoạch tần số vô tuyến điện quy định tại Điều 10 Luật Tần số vô
tuyến điện năm 2009 cũng chưa bảo đảm nguyên tắc tránh tích tụ khi lập, phê
duyệt quy hoạch để không cản trở việc phát triển thị trường của doanh nghiệp và
quyền lợi của người dân.
Ngoài ra, việc
cho phép chuyển nhượng tần số vô tuyến điện trong trường hợp đấu giá theo quy
định của Luật Tần số vô tuyến điện và thực tế mua bán, sát nhập, hợp nhất giữa
các doanh nghiệp viễn thông có thể dẫn đến một hoặc hai doanh nghiệp viễn thông
có thể đạt được hầu hết lượng phổ tần.
Trên cơ sở đó,
điểm a khoản 2 và điểm a khoản 17 Điều 1 của Luật đã sửa đổi, bổ sung quy định
về quy hoạch băng tần để làm rõ trong quy hoạch băng tần có quy định về giới
hạn tổng độ rộng băng tần mà một tổ chức được phép sử dụng; bổ sung nguyên tắc
quy hoạch tần số vô tuyến điện bảo đảm tránh tích tụ đối với băng tần sử dụng
trong hoạt động viễn thông nhằm tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và thúc đẩy
phát triển thị trường viễn thông; đồng thời, khoản 11 Điều 1 của Luật đã sửa
đổi quy định về chuyển nhượng quyền sử dụng tần số vô tuyến điện được cấp thông
qua đấu giá để đảm bảo sau khi nhận chuyển nhượng thì tổng lượng băng tần sau
của doanh nghiệp không vượt quá giới hạn tổng độ rộng băng tần mà một tổ chức
được cấp phép sử dụng.
Việc bổ sung quy định giới hạn tổng lượng băng tần một doanh nghiệp được
phép sử dụng sẽ góp phần hạn chế sự tích tụ tài nguyên tần số trong tay một số
doanh nghiệp lớn, có tiềm lực kinh tế mạnh từ đó các doanh nghiệp nhỏ hoặc
doanh nghiệp mới có thêm cơ hội được sử dụng băng tần, tăng tính cạnh tranh của
thị trường viễn thông, góp phần thúc đẩy thị trường viễn thông phát triển.
(ii) Luật Tần số vô
tuyến điện hiện hành quy định ba phương thức: đấu giá, thi
tuyển và cấp trực tiếp. Phương thức đấu giá, thi tuyển được áp dụng với trường hợp
băng tần, kênh tần số giá trị thương mại cao, nhu cầu vượt quá khả năng phân bổ
do Thủ tướng Chính phủ quyết định trong từng thời kỳ. Với quy định này, Thủ
tướng Chính phủ không có căn cứ để xác định trường hợp nào băng tần được đấu
giá, trường hợp nào thì thi tuyển, loại băng tần nào được đấu giá, thi tuyển.
Luật chưa quy định rõ khi doanh nghiệp thử nghiệm mạng và dịch vụ viễn thông có
sử dụng tần số vô tuyến điện thì cấp giấy phép sử dụng tần số vô tuyến điện
theo phương thức nào. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy băng tần được sử dụng để
cung cấp dịch vụ thông tin di động mặt đất công cộng được nhiều nước trên thế
giới đấu giá hoặc thi tuyển để lựa chọn doanh nghiệp phù hợp khi phân bổ băng
tần “quý hiếm”, có thể mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp được quyền khai
thác, sử dụng băng tần đó. Trong đó, đấu giá là phương thức cấp phép được áp
dụng phổ biến nhất trên thế giới hiện nay do tính khách quan, minh bạch và phản
ánh chính xác nhất giá trị kinh tế của phổ tần; thi tuyển thường được áp dụng
trong một số trường hợp nhất định như cần triển khai nhanh công nghệ mới với
phạm vi phủ sóng rộng hoặc cần thúc đẩy cạnh tranh. Tại Việt Nam, băng tần được
sử dụng để cung cấp dịch vụ thông tin di động mặt đất công cộng cũng rất khan
hiếm nhưng chưa được cụ thể hóa trong Luật khi nào áp dụng phương thức cấp phép
thông qua đấu giá, khi nào thi tuyển. Ngoài ra, trong bối cảnh Nhà nước đang có
chính sách ưu tiên phát triển công nghiệp quốc phòng,
an ninh, kết hợp với công nghiệp dân sinh theo hướng lưỡng dụng nhưng Luật hiện hành
chưa có quy định về cấp phép sử dụng tần số vô tuyến điện để phát triển kinh tế
kết hợp với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
Trên cơ sở đó,
khoản 6 Điều 1 của Luật đã sửa đổi, bổ sung quy định về phương thức cấp phép để
làm rõ: (1) Đấu giá đối với băng tần để thiết lập mạng viễn thông công cộng di
động mặt đất; băng tần, kênh tần số để thiết lập mạng viễn thông công cộng mặt
đất khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thông
tin và Truyền thông; (2) Thi tuyển các băng tần, kênh tần số này khi cần phủ
sóng công nghệ mới trên diện rộng trong một khoảng thời gian nhất định hoặc khi
cần có yếu tố mới thúc đẩy cạnh tranh cho hoạt động viễn thông; (3) Cấp trực
tiếp các băng tần, kênh tần số trên khi
trong tình trạng khẩn cấp với thời hạn giấy phép không quá 03 năm hoặc khi cấp
lại hoặc khi cấp cho doanh nghiệp nhà nước trực tiếp phục vụ quốc phòng, an
ninh với thời hạn không quá 03 năm để phát triển kinh tế kết hợp với nhiệm vụ
quốc phòng, an ninh trong trường hợp đặc biệt và cấp trực tiếp đối với các băng
tần, kênh tần số còn lại.
Quy định này
bảo đảm tính ổn định, khả thi của Luật, điều hành của Chính phủ, góp phần thúc
đẩy công tác quản lý, sử dụng băng tần cho thông tin di động theo hướng công
khai minh bạch, theo cơ chế thị trường, thúc đẩy doanh nghiệp sử dụng hiệu quả
tần số, góp phần thúc đẩy phát triển hạ tầng viễn thông, là tiền đề để phát
triển kinh tế số, xã hội số; góp phần xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an
ninh hiện đại, lưỡng dụng, vừa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, vừa
góp phần quan trọng phát triển kinh tế, xã hội.
(iii) Theo quy định
của Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009, đối với các
băng tần có giá trị thương mại cao và nhu cầu sử dụng vượt quá khả năng phân bổ
thì sau khi giấy phép đã được gia hạn tối đa hết thời hạn sử dụng có hai hình
thức cấp phép là Nhà nước sẽ thu hồi để đấu giá hoặc thi tuyển cho chu kỳ 15
năm tiếp theo của giấy phép. Quy định này có nhược điểm là do doanh nghiệp không
được cấp lại giấy phép nên sẽ không liên tục đầu tư, phát triển công nghệ mới
(hiện nay vòng đời công nghệ đang ngày càng ngắn lại, chỉ còn 5 – 7 năm), vì
thế chất lượng dịch vụ viễn thông có thể sẽ không được cải thiện, nhất là ở
giai đoạn giấy phép sắp hết hạn. Mặt khác, việc đấu giá, thi tuyển băng tần sau
khi hết hạn giấy phép trong trường hợp doanh nghiệp cũ không trúng đấu giá hoặc
trúng tuyển băng tần đã được cấp có thể gây lãng phí hạ tầng thụ động mà doanh
nghiệp đó đã đầu tư. Theo thống kê, tại Việt Nam, các doanh nghiệp hiện có giấy
phép băng tần đã phủ sóng thông tin di động 2G, 3G, 4G đến 99,8% dân số với hơn
300 nghìn trạm phát sóng di động trên cả nước. Nếu thu hồi băng tần sau khi
giấy phép hết hạn sẽ không tận dụng được một phần đáng kể hạ tầng thụ động hiện
có.
Nhiều nước trên
thế giới không tổ chức đấu giá, thi tuyển lại mà cho phép doanh nghiệp được
tiếp tục sử dụng kèm theo các điều kiện triển khai mới cho chu kỳ tiếp theo của
giấy phép nếu quy hoạch tần số đối với băng tần đó không thay đổi (Anh, New
Zealand, Hồng Kong, Pháp, Canada, Mỹ...).
Trên cơ sở đó, khoản 8 Điều 1 của Luật đã bổ sung một điều mới (Điều 20a)
quy định về cấp lại giấy phép sử dụng băng tần để cho phép doanh nghiệp được
tiếp tục sử dụng băng tần sau khi giấy phép hết hiệu lực nếu đáp ứng các điều
kiện để được cấp lại theo quy định của Luật. Quy định này khuyến khích, thúc
đẩy các doanh nghiệp sử dụng tần số hiệu quả và hơn yên tâm đầu tư dài hạn.
(iv) Luật Tần số vô
tuyến điện năm 2009 chưa có quy định về cam kết triển khai
mạng viễn thông đối với các tổ chức được cấp giấy phép sử dụng băng tần. Các
băng tần này được sử dụng khi thiết lập mạng viễn thông nhằm cung cấp dịch vụ
thông tin di động trên toàn quốc. Hoạt động của mạng tác động trực tiếp đến hàng
triệu thuê bao và là một trong các hệ thống thông tin vô tuyến điện cốt lõi của
Việt Nam. Trên thực tế, khi cấp phép sử dụng băng tần để triển khai mạng thông
tin di động, các nước đều đưa ra các yêu cầu triển khai mạng như: yêu cầu về
vùng phủ sóng, số lượng trạm hay thời điểm cung cấp dịch vụ...
Trên cơ sở đó, khoản 5 và khoản 8 Điều 1 của
Luật đã bổ sung quy định yêu cầu tổ chức đề nghị cấp phép thông qua đấu giá,
thi tuyển hoặc khi được cấp lại giấy phép sử dụng băng tần phải có cam kết
triển khai mạng viễn thông; khi vi phạm cam kết thì bị đình chỉ có thời hạn một
phần quyền sử dụng tần số vô tuyến điện. Quy định này bảo đảm tần số được sử
dụng hiệu quả, đáp ứng mục tiêu phát triển viễn thông của Nhà nước, mang lại
lợi ích tốt nhất cho xã hội.
(v) Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 chưa có quy định cụ thể về
điều kiện để được tham gia đấu giá, thi tuyển quyền sử dụng tần số vô tuyến
điện trong khi băng tần dành cho thông tin di động mặt đất công cộng rất hữu
hạn và là nguồn lực thiết yếu để doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông.
Vì vậy, khoản 5 và khoản 8 Điều 1 của Luật đã
bổ sung quy định về điều kiện được tham gia đấu giá, thi tuyển quyền sử dụng
tần số vô tuyến điện như yêu cầu tổ chức phải có đủ điều kiện được cấp giấy
phép thiết lập mạng viễn thông, phải có cam kết triển khai mạng viễn thông,
hoàn thành các nghĩa vụ tài chính về viễn thông và tần số vô tuyến điện. Quy
định về điều kiện tham gia đấu giá, thi tuyển đảm bảo lựa chọn được các doanh
nghiệp tốt nhất để trao quyền sử dụng sử dụng tần số.
(vi) Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 quy định việc quản lý, cấp
giấy phép sử dụng tần số vô tuyến điện phải phù hợp với các quy hoạch tần số vô
tuyến điện. Tuy nhiên, một số trường hợp đặc biệt, cần thiết phải sử dụng tần
số và thiết bị vô tuyến điện ngoài quy hoạch tần số vô tuyến điện của Việt Nam
nhưng cần được xem xét cấp phép để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của Việt
Nam, doanh nghiệp nước ngoài trong hoạt động nghiên cứu, sản xuất để xuất khẩu hoặc
bảo đảm hoạt động của các sự kiện đặc biệt tại Việt Nam.
Trên cơ sở đó,
khoản 3 Điều 1 của Luật đã bổ sung một điều mới (Điều 11a) cho phép Bộ TTTT xem
xét cấp sử dụng tần số ngoài quy hoạch trong một số các trường hợp đặc biệt như:
sử dụng cho mục đích triển lãm, đo kiểm, nghiên cứu, thử nghiệm công nghệ mới
hoặc sử dụng trong các sự kiện, hội nghị quốc tế. Quy định này góp phần thúc
đẩy việc nghiên cứu, sản xuất thiết bị vô tuyến điện của Việt Nam, đồng thời
vẫn bảo đảm được ngăn ngừa khả năng can nhiễu với các hệ thống thông tin vô
tuyến điện khác.
b) Các khoản thu từ việc sử dụng tần số vô tuyến điện
Luật Tần số vô
tuyến điện năm 2009 quy định phí sử dụng tần số vô tuyến điện được quy định trên
cơ sở giá trị kinh tế của phổ tần số vô tuyến điện sử dụng, điều này chưa thực
sự phù hợp với quy định của Luật Phí, lệ phí.
Ngoài ra, Luật
Tần số vô tuyến điện năm 2009 chỉ quy định việc cấp phép thông qua
đấu giá quyền sử dụng tần số vô tuyến điện là có thu khoản tiền ngoài phí, lệ
phí; chưa quy định thu khoản tiền cấp quyền sử dụng tần số vô tuyến điện với
trường hợp thi tuyển các băng tần có giá trị thương mại cao khi nhu cầu sử dụng
vượt quá khả năng phân bổ hoặc khi cấp trực tiếp các băng tần này. Quy định này
chưa đồng bộ với quy định về khoản thu từ tiền cấp quyền sử dụng tài nguyên
theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công.
Trên cơ sở đó, khoản 12 Điều 1 của Luật đã sửa đổi, bổ sung Điều 31 Luật
Tần số vô tuyến điện năm 2009 để quy
định về các trường hợp phải nộp tiền cấp quyền sử dụng tần số vô tuyến điện;
giao Chính phủ quy định cụ thể mức thu, phương thức thu tiền cấp quyền sử dụng
tần số vô tuyến điện; sửa đổi quy định về cơ sở xác định mức thu phí sử dụng
tần số vô tuyến điện để làm rõ nội hàm của phí không căn cứ vào giá trị kinh tế
của phổ tần; bổ sung quy định các doanh nghiệp quốc phòng, an ninh khi sử dụng
tần số phân bổ cho quốc phòng, an ninh kết hợp với phát triển kinh tế thì cũng
phải nộp các khoản thu nói trên cho ngân sách để đảm bảo sự cạnh tranh lành
mạnh trong hoạt động viễn thông và sự bình đẳng về nghĩa vụ giữa các doanh
nghiệp trong việc thực hiện các khoản phí, lệ phí và tiền cấp quyền sử dụng tần
số vô tuyến điện cho ngân sách nhà nước.
c) Về đào tạo và cấp chứng chỉ
vô tuyến điện viên
Theo quy định của Liên minh Viễn thông quốc tế -
ITU (Việt Nam là thành viên), người trực tiếp khai thác đài vô tuyến điện hàng
hải, hàng không, vô tuyến điện nghiệp dư phải có chứng chỉ vô tuyến điện viên do Bộ
quản lý chuyên ngành về viễn thông cấp hoặc công nhận. Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 giao Bộ TTTT trực tiếp thực hiện việc đào tạo và cấp chứng chỉ vô tuyến
điện viên là chưa thực sự phù hợp với chủ trương xã hội hóa trong giáo dục, đào
tạo, cấp chứng chỉ của Đảng và Nhà nước.
Đối với các lĩnh
vực đặc thù như hàng không, hiện nay việc đào tạo một số chức danh nhân viên hàng không
(như nhân viên thông tin, giám sát, dẫn đường hàng không) đã gồm cả đào tạo về
vô tuyến điện. Vì vậy không cần phải cấp riêng chứng chỉ vô tuyến điện viên cho
các cá nhân làm việc trong các lĩnh vực đặc thù, chuyên ngành.
Ngoài ra, việc
giao thẩm quyền cho Chính phủ quy định chi tiết điều kiện, thủ tục công nhận tổ
chức đủ điều kiện đào tạo, tổ chức thi, chấm thi, cấp chứng chỉ vô tuyến điện
viên là phù hợp với quy định của Luật Đầu tư về điều kiện đầu tư, kinh doanh.
Trên cơ sở đó,
điểm b khoản 1 và khoản 32 Điều 1 của Luật đã sửa đổi quy định về đào tạo, cấp
chứng chỉ vô tuyến điện viên để giao các cơ sở đào tạo đáp ứng các điều kiện
đào tạo theo quy định của Chính phủ thực hiện, Bộ TTTT đóng vai trò quản lý,
giám sát nhằm đẩy mạnh việc cải cách hành chính và xã hội hóa công tác đào tạo
cấp chứng chỉ. Đối với các trường hợp đã có chứng chỉ tương đương theo quy định
của pháp luật hoặc Điều ước quốc tế thì không bắt buộc phải có chứng chỉ vô tuyến
điện viên. Khoản 5 Điều 4 của Luật cho phép việc đào tạo, cấp chứng chỉ vô
tuyến điện viên tiếp tục được thực hiện theo quy định của Luật Tần số vô tuyến
điện năm 2009 đến hết ngày 30 tháng 6 năm 2024 để tạo điều kiện cho cơ sở
đào tạo có thời gian chuẩn bị các thủ tục, hồ sơ để được tiếp tục đào tạo vô
tuyến điện theo quy định mới. Quy định này góp phần đẩy mạnh việc cải cách hành
chính nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu quản lý của Nhà nước trong công tác đào tạo và
cấp chứng chỉ vô tuyến điện viên.
d) Nhóm quy định về xử lý nhiễu
có hại, đăng ký, phối hợp quốc tế về tần số, quỹ đạo vệ tinh
(i) Đối với
vấn đề khai thác sử dụng để đảm bảo an toàn, không can nhiễu, Luật Tần số vô
tuyến điện năm 2009 chỉ quy
định các tổ chức, cá nhân sử dụng tần số vô tuyến điện và thiết bị vô tuyến
điện trong khu vực nhiễu có hại có trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý
chuyên ngành và tạo điều kiện để phát hiện, xử lý nhiễu. Tuy nhiên, trong quá
trình xử lý nhiễu có hại những năm qua cho thấy nhiều vụ nhiễu có nguyên nhân
từ các thiết bị không phải thiết bị vô tuyến điện mà từ các thiết bị điện, điện
tử như nhiễu từ đèn huỳnh quang, máy ép công nghiệp…, trong khi đó Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 chưa có quy định cho phép cơ quan quản
lý tiếp cận nguồn nhiễu này để tìm nguyên nhân và xử lý nhiễu, gây ảnh hưởng
tới hoạt động, lợi ích của người sử dụng khác.
Vì vậy, điểm e khoản 17 Điều 1 của Luật đã bổ sung quy định trách
nhiệm của tổ chức, cá nhân sử dụng thiết bị điện, điện tử, thiết bị ứng dụng
sóng vô tuyến điện trong khu vực nhiễu có hại trong việc phối hợp với cơ quan
quản lý chuyên ngành tần số vô tuyến điện. Quy định này góp phần nâng
cao trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sử dụng thiết bị điện, điện tử, thiết bị
ứng dụng sóng vô tuyến điện, đảm bảo đảm bảo hệ thống thông tin vô tuyến được
vận hành thông suốt, hiệu quả.
(ii) Để được Liên minh Viễn thông quốc tế - ITU công nhận chủ
quyền sử dụng tần số và quỹ đạo vệ tinh (ví dụ tần số vô tuyến điện và quỹ đạo
cho vệ tinh Vinasat 1 và 2) phải tiến hành đàm phán khó khăn giữa các nước có
liên quan để hoàn thành việc phối hợp tần số vô tuyến điện, quỹ đạo vệ tinh với
các nước bị ảnh hưởng. Sau khi tần số vô tuyến điện, quỹ đạo vệ tinh được ITU
công nhận, khi vệ tinh của Việt Nam hoạt động trên quỹ đạo vẫn cần được tiếp
tục bảo vệ để không bị ảnh hưởng bởi các tần số vô tuyến điện, vệ tinh của nước
ngoài được đăng ký sau này. Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 đã có quy định đầy đủ ở khâu đăng ký, phối hợp tần số vô
tuyến điện và quỹ đạo vệ tinh bao gồm quy định trách nhiệm của cơ quan quản lý
và tổ chức, doanh nghiệp trực tiếp thực hiện phối hợp với tổ chức nước ngoài
nhưng chưa có quy định bảo vệ tần số vô tuyến điện và quỹ đạo vệ tinh sau khi
được ITU công nhận. Trên thực tế, việc thực hiện kiểm tra các đăng ký tần số vô
tuyến điện và quỹ đạo vệ tinh của nước ngoài chỉ có Bộ TTTT thực hiện mà chưa
có sự tham gia của các doanh nghiệp được cấp phép sử dụng tần số và quỹ đạo vệ
tinh đó. Nhiều nước trên thế giới giao cho doanh nghiệp trực tiếp quản lý hệ
thống vệ tinh thực hiện việc này, Bộ là đầu mối thông báo với ITU các đăng ký
tần số và quỹ đạo vệ tinh có thể gây nhiễu có hại cho vệ tinh của nước đó để
huy động nguồn lực của doanh nghiệp, giúp bảo vệ tốt hơn chủ quyền sử dụng tần
số và quỹ đạo vệ tinh.
Vì vậy, khoản 14 và điểm đ khoản 17 Điều 1 của Luật đã bổ sung quy
định trách nhiệm của Bộ TTTT và của tổ chức được cấp giấy phép sử
dụng tần số và quỹ đạo vệ tinh trong việc kiểm tra các đăng ký tần số vô tuyến
điện và quỹ đạo vệ tinh của nước ngoài có khả năng ảnh hưởng đến hệ thống vệ
tinh của Việt Nam nhằm huy động tối đa các nguồn lực để bảo vệ tốt hơn chủ
quyền của Việt Nam. Quy định này góp phần nâng cao trách nhiệm của Bộ TTTT và của tổ
chức sử dụng tần số vô tuyến điện và quỹ đạo vệ tinh, đảm bảo hệ thống thông
tin vệ tinh của Việt Nam được vận hành thông suốt, hiệu quả.
đ) Các nội dung của Luật liên
quan đến thẩm quyền quy định văn bản để phù hợp, thống nhất với các Luật có
liên quan
(i) Sửa đổi thẩm quyền quy định thủ tục
cấp phép, cho thuê, cho mượn, thu hồi giấy phép, đấu giá, chuyển nhượng, thi
tuyển quyền sử dụng tần số, quy định về hành lang an toàn kỹ thuật của đài vô
tuyến điện là của Chính phủ; cơ chế phối hợp quản lý, sử dụng tần số giữa Bộ TTTT,
Bộ Quốc phòng, Bộ Công an là của Thủ tướng Chính phủ để phù hợp với Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật (khoản 4, khoản 7, điểm b khoản 10, các điểm c,
g và i khoản 16 Điều 1 của Luật).
(ii) Bỏ quy định thẩm quyền của
Bộ Ngoại giao, Bộ TTTT trong việc hướng dẫn trình tự, thủ tục ký kết các thỏa thuận
quốc tế về tần số để thực hiện theo quy định tại Luật Thỏa thuận quốc tế 2020
(khoản 17 Điều 1 của Luật).
e) Nhóm quy đTruy7, điểm b khoản
10, các điểm c, g và i khoản 16 Điều
(i) Khoản 1 Điều 2
của Luật bổ sung mục 228 vào sau mục 227 của Phụ lục IV Danh mục ngành, nghề
đầu tư kinh doanh có điều kiện của Luật Đầu tư (đưa việc “Đào
tạo, tổ chức thi, cấp chứng chỉ vô tuyến điện viên” thuộc ngành nghề đầu tư
kinh doanh có điều kiện) để đồng bộ với quy định tại khoản 13
Điều 1 của Luật.
(ii) Do tần số vô tuyến điện truyền lan tự do trong không gian, không bị giới
hạn bởi địa giới hành chính và chỉ có thể phát hiện vi phạm thông qua các
phương tiện kỹ thuật, nghiệp vụ; Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 chưa có quy định về quản lý và sử
dụng hệ thống thiết bị, phương tiện để phát hiện vi phạm hành chính, do vậy, khoản
2 Điều 2 Luật đã bổ sung cụm từ “tần số vô tuyến điện”
vào sau cụm từ “phòng, chống tác hại của
rượu, bia” tại khoản 1 Điều 64 của Luật Xử lý vi phạm hành chính số
15/2012/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 54/2014/QH13,
Luật số 18/2017/QH14 và Luật số 67/2020/QH14 để quy định việc phát hiện vi phạm
trong lĩnh vực tần số vô tuyến điện được phép sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ
thuật nghiệp vụ chuyên dụng.
g) Điều khoản chuyển tiếp
(i) Khoản 1 Điều 4
của Luật cho phép giấy phép sử dụng tần số vô tuyến điện đã cấp trước ngày Luật
này có hiệu lực thi hành thì được tiếp tục sử dụng cho đến hết thời hạn được
ghi trong giấy phép. Chứng chỉ vô tuyến điện viên đã cấp trước ngày 01/7/2024
thì được tiếp tục sử dụng cho đến hết thời hạn được ghi trong chứng chỉ để đảm
bảo tính liên tục, không ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của tổ chức, cá
nhân đã được cấp giấy phép, chứng chỉ theo quy định của Luật Tần số vô tuyến
điện năm 2009.
(ii) Khoản 2 Điều 4
của Luật cho phép đối với các tổ chức đã được cấp giấy phép sử dụng băng tần để
thiết lập mạng viễn thông công cộng di động mặt đất với thời hạn sử dụng trước
ngày 06/9/2023 thì sẽ được xem xét gia hạn sử dụng tiếp đến đến hết ngày 15/9/2024
theo quy định của Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 mà không phải
nộp tiền cấp quyền sử dụng tần số cho thời gian được gia hạn.
(iii) Khoản 3 Điều 4
của Luật cho phép tổ chức đã được cấp giấy phép sử dụng băng tần để thiết lập
mạng viễn thông công cộng di động mặt đất mà hết hạn sử dụng trước ngày 16/9/2024
thì không phải nộp tiền cấp quyền sử dụng tần số vô tuyến điện cho đến hết thời
hạn được ghi trong giấy phép và không được gia hạn (trừ trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều 4).
(iv) Bộ TTTT thông
báo quy hoạch băng tần đối với các băng tần đã cấp cho tổ chức quy định tại
khoản 2 và khoản 3 Điều 4 của Luật trước ngày 01/8/2023. Đối với khối băng tần
được xem xét cấp lại mà sử dụng chung tần số vô tuyến điện theo giấy phép sử
dụng băng tần đã cấp trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành thì được xem xét
cấp lại theo hiện trạng sử dụng.
IV.
MỘT SỐ
VẤN ĐỀ NGƯỜI DÂN CẦN LƯU Ý KHI THỰC HIỆN LUẬT
1.
Về giới hạn tối đa tổng độ rộng băng tần mà một tổ chức được cấp phép sử dụng
Theo quy định tại khoản 2 và khoản 11 Điều
1 của Luật, khi có kế hoạch sử dụng băng tần để cung cấp dịch vụ thông tin di động
hoặc khi thực hiện hợp nhất, sát nhập, mua bán doanh nghiệp viễn thông, doanh
nghiệp, Bộ TTTT đề nghị doanh nghiệp lưu ý đến quy định về giới hạn tối đa tổng
độ rộng băng tần được sử dụng để đảm bảo không vượt quá giới hạn này.
2.
Về trình tự, thủ tục đề nghị cấp lại giấy phép sử dụng băng tần
Theo quy định tại khoản 8 Điều 1 của Luật,
khi doanh nghiệp có kế hoạch sử dụng tiếp băng tần sau khi giấy phép đã cấp hết
hạn sử dụng, Bộ TTTT đề nghị doanh nghiệp lưu ý đến quy hoạch băng tần đối với
băng tần đã được cấp và thời gian thực hiện thủ tục cấp lại, các nghĩa vụ đối với
doanh nghiệp cần phải hoàn thành trước khi thực hiện thủ tục.
3.
Về công nhận tổ chức đủ điều kiện đào tạo, cấp chứng chỉ vô tuyến điện viên
Theo quy định tại khoản 2
Điều 3 và khoản 5 Điều 4 của Luật, để đảm bảo tính liên tục, kịp thời trong
công tác đào tạo và cấp chứng chỉ vô tuyến điện viên, Bộ TTTT đề nghị các cơ sở
đào tạo vô tuyến điện viên sớm hoàn thiện hồ sơ, thủ tục để được công nhận là
cơ sở đủ điều kiện đào tạo vô tuyến điện viên.
V.
TRIỂN KHAI THI HÀNH LUẬT
Hiện nay Bộ TTTT đã và đang khẩn trương xây dựng hệ thống các văn bản hướng
dẫn thi hành Luật cũng như phổ biến, triển khai Luật, bảo đảm khi Luật có hiệu
lực thi hành, các nghị định quy định chi tiết thi hành Luật cũng được Chính phủ
ban hành, cụ thể:
1. Xây dựng
Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Tần số vô tuyến điện;
2. Xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung
Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày 03/02/2020 quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ
thông tin và giao dịch điện tử.
3.
Xây dựng các Quy hoạch băng tần đối với các băng tần đã cấp cho doanh nghiệp và
sẽ hết hạn sử dụng trong thời gian tới./.
PHÒNG
TƯ PHÁP HUYỆN QUỲ HỢP